Có lẽ cái tên VinBus đã dần quen thuộc với nhiều người, những chiếc xe này khác biệt cả từ vẻ ngoài cho đến cách vận hành của động cơ khi so với những chiếc xe buýt truyền thống. Tuy nhiên đây là chi tiết nhỏ, ít ai để ý nhưng lại tạo ra sự khác biết rất lớn đối với những người khuyết tật.
Chi tiết nhỏ, khác biệt lớn
VinBus là mẫu xe buýt điện đầu tiên của tập đoàn Vingroup. Với khối pin có dung lượng 281 kWh, nếu sạc bằng trạm sạc 150kW chỉ sau 2 tiếng sẽ đầy và có khả năng vận hành từ 220-260 km tùy điều kiện. Đó là điểm khác biệt đầu tiên của VinBus khi so sánh với xe buýt truyền thống.
Thế nhưng điều khiến nhiều người cảm thấy có thiện cảm với VinBus chính là thái độ phục vụ đối với hành khách. Nhiều người cho rằng đó là sự văn minh, tích cực và cần thiết đối với xã hội hiện đại.
Thế nhưng đó là đối với những người dùng phổ thông. Những chiếc xe VinBus còn tạo ra sự khác biệt rõ ràng so với những chiếc xe buýt truyền thống ở chỗ nó thân thiện hơn đối với người già và người khuyết tật.
Thông thường, những chiếc xe buýt truyền thống sẽ có cửa nhỏ, hai bậc cao để đi lên hoặc có cửa rộng thì gầm lại cao, điều này gây ra sự khó khăn nhất định đối với người già và người khuyết tật khi lên xe. Trong khi đó, VinBus lại tìm ra được cách khắc phục điều đó bằng một bậc nhỏ cho phép người già, trẻ nhỏ, người khuyết tật dễ dàng lên và xuống xe.
Chi tiết này có vẻ nhỏ, nhưng rõ ràng nó đã tạo lên sự khác biệt rất lớn đối với những người sử dụng xe buýt.
Video được lấy từ Fanpage Hanoibus - Xe buýt Hà Nội
Ngoài ra, những chiếc VinBus đều có thiết kế vuông vức, phối 2 tông màu đen của kính và xanh lá cây ở vỏ. Trên xe gắn logo Green (có nghĩa là Xanh). Mỗi chiếc xe buýt có thể chứa tối đa 72 người, bao gồm 25 chỗ ngồi và 47 tay nắm để hành khách có thể đứng.
VinBus còn được định hướng là loại xe buýt điện thông minh. Hồi cuối năm 2020, VinBus và Advantech VN ký kết hợp tác chiến lược phát triển hệ thống quản lý điều hành xe buýt thông minh. Các giải pháp được tập trung phát triển gồm camera AI giám sát hành vi lái xe, wifi cho hành khách, thiết bị giám sát hành trình, giám sát an ninh trong xe, phần mềm quản lý thông tin đội xe...
Theo công bố trước đó, VinBus sẽ tập trung vận hành tại Hà Nội, TP. HCM và Phú Quốc với số lượng dự kiến 150-200 xe trong giai đoạn đầu. Thời gian hoạt động từ 5 giờ tới 22 giờ hàng ngày, trung bình 10-20 phút một lượt xe.
Hãy nhìn xa hơn!
Trong thế giới mà hiện tượng ấm lên toàn cầu đang trở thành mối quan tâm lớn như hiện nay, xe buýt điện có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thải từ phương tiện giao thông và có thể cung cấp dịch vụ vận chuyển tốt hơn so với các phương tiện chạy bằng xăng hoặc dầu thông thường khác. Xe buýt điện có thể đưa ra các giải pháp di chuyển bền vững bằng cách giảm phát thải khí nhà kính, điều này đồng nghĩa với việc bảo vệ môi trường tốt hơn.
Ngoài ra, xăng hoặc dầu diesel, là nhiên liệu hóa thạch - nguồn năng lượng không thể tái tạo, do đó chúng sẽ cạn kiệt sau một thời gian đáng kể. Vì vậy, xe buýt điện đã được phát minh. Một chiếc xe buýt điện có thể chuyển đổi hơn 50% năng lượng điện, trong khi một chiếc xe buýt thông thường chỉ có thể chuyển đổi gần 20% năng lượng được lưu trữ trong xăng.
Hơn nữa, xe buýt điện có hiệu quả cao, an toàn và đáng tin cậy cho cả nhà sản xuất và người tiêu dùng. Chúng có chi phí vận hành thấp hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn so với xe buýt diesel thương mại. Trên thực tế, xe buýt điện cần rất ít nhu cầu bảo dưỡng. Ngoài ra, chúng còn góp phần vào hạn chế ô nhiễm tiếng ồn khi so với những chiếc xe sử dụng động cơ đốt trong.
Theo báo cáo do Allied Market Research công bố, quy mô thị trường xe buýt điện toàn cầu dự kiến đạt 31,45 tỷ USD với tốc độ CAGR (Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm kép) đáng kể từ năm 2019 đến năm 2027. Các yếu tố chính như nhu cầu về phương tiện phát thải thấp, nhu cầu về tiết kiệm nhiên liệu và hiệu suất cao, giảm giá pin và các quy định nghiêm ngặt của chính phủ đối với phát thải xe cộ đã thúc đẩy thị trường xe buýt điện toàn cầu theo nhiều cách. Hiện tại, Trung Quốc đang thống trị thị trường xe buýt điện với hơn 420.000 xe buýt trên đường, Mỹ có gần 500 và châu Âu có hơn 2.000 xe buýt.
Chiếc xe buýt điện đầu tiên trên thế giới
Vào ngày 13 tháng 2 năm 1970, kết hợp với các công ty đối tác RWE, Bosch và Varta, MAN đã giới thiệu một chiếc xe buýt chạy bằng điện đầu tiên trên thế giới cho các đại diện báo chí từ khắp nước Đức sau hai năm phát triển.
Một thông cáo báo chí của MAN cho biết, chiếc xe buýt là để “đóng góp tích cực trong ngành chống ô nhiễm không khí và tiếng ồn trên các tuyến đường nội đô”.
Vào tháng 1 năm 1971, 11 tháng sau buổi giới thiệu và sau quá trình thử nghiệm toàn diện tại nhà máy, MAN đã bàn giao nguyên mẫu cho công ty vận tải ở Koblenz để thực hiện loạt thử nghiệm kéo dài một năm trong hoạt động dịch vụ thường xuyên.
Xe buýt điện lúc đó được phục vụ tại Đường số 7, có thể vận chuyển 99 hành khách và có phạm vi hoạt động 50 km. Pin được đặt trong xe đảm bảo thời gian lái xe từ hai đến ba giờ. Ngoài ra, chiếc xe buýt này còn kéo theo một xe moóc một trục với pin dự phòng để có thể nhanh chóng trong trường hợp cần thiết.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1974, MAN đã bàn giao những chiếc xe buýt điện chạy bằng pin mới đầu tiên cho thành phố Mönchengladbach. Xe buýt điện SL-E thế hệ thứ hai được sử dụng ở đó cho đến năm 1979.
Các tính năng mới bao gồm bộ pin của chúng, được mở rộng thêm 50% và mô-đun xe kéo được làm lại. Do đó, nó có thể đạt được phạm vi lên đến 80 km và thay pin hoàn toàn tự động. Dusseldorf và Frankfurt am Main cũng đã tận dụng những lợi thế của xe buýt điện từ MAN và triển khai thành công chúng trong giao thông công cộng địa phương. Hoạt động không phát thải và gần như im lặng của xe buýt điện thời điểm này đã là một thành công đáng kể.
Theo thời gian, những chiếc xe buýt này cũng dần được biến đổi và thay thế bởi những thế hệ mới hơn. Những chiếc xe buýt điện City E mới nhất của MAN Lion hoạt động tốt hơn hẳn những chiếc cũ. Và hiện tại chúng sử dụng trạm sạc thay vì phải kéo theo cục pin dự phòng. Chúng có thể di chuyển trong phạm vi 200 km và trong điều kiện thuận lợi, nó có thể di chuyển gần 300 km.