(AutoPro) - Ôtô tương lai sẽ như thế nào? Rất nhiều người đã tiên đoán về một chiếc xe tự kiểm soát hoàn toàn, “nhất cử nhất động” được một trung tâm điều hành theo dõi và điều khiển. Tuy nhiên, công nghệ mới có thể ứng dụng dừng lại ở tác dụng phòng ngừa tai nạn đồng thời giảm bớt ách tắc giao thông.
Hiện tất cả các hãng sản xuất xe hơi lớn trên thế giới đều đang nghiên cứu và phát triển các công nghệ “giao tiếp” giữa xe hơi với nhau gọi là “vehicle-to-vehicle” hay V2V, ở nhiều cấp độ tự can thiệp khác nhau. General Motors (GM) là hãng đi đầu trong lĩnh vực này. Năm 2005, GM đã giới thiệu V2V dựa trên Hệ thống định vị toàn cầu (GPS) cùng mạng không dây cục bộ LAN (local area network) và hiện tại hãng vẫn đang thử nghiệm hệ thống này.
V2V của GM là sự kết hợp giữa hai công nghệ OnStar và Stabilitrak tích hợp với một ăngten đơn giản cùng chip máy tính để xác định vị trí cũng như chuyển động của những chiếc xe thuộc hệ thống trong bán kính 500m. Các giao tiếp được chuyển tải thông qua một hệ thống không dây WiFi do Uỷ ban Thông tin Liên bang Mỹ cấp phép. Mỗi xe sẽ đóng vai trò như một “máy thu - phát thông tin”, cung cấp số liệu cho các xe chạy trong vòng 500m biết về tình trạng luồng giao thông, có xe dừng ở phía trước hay không, điều kiện thời tiết và đường sá hay sự xuất hiện của xe cứu hộ và khẩn cấp.
V2V không sử dụng công nghệ bản đồ kỹ thuật số (digital mapping) hay dịch vụ nhận và gửi dữ liệu của nhà cung cấp dó đó nó tiết kiệm chi phí sử dụng. Nhiều người cho rằng một khi được ứng dụng rộng rãi, V2V sẽ đặt dấu chấm hết cho hệ thống dịch vụ thông tin có đăng ký nổi tiếng OnStar của GM tại Mỹ hiện nay. Giáo sư Horst Wieker thuộc Đại học Saarbrucken, một trong những đối tác của GM tham gia dự án còn cho biết: hệ thống LAN không dây giúp thông tin trao đổi giữa các xe diễn ra cực nhanh, chỉ trong vài phần nghìn giây.
Hệ thống V2V không quá đắt. Priyantha Mudalige, kỹ sư nghiên cứu cấp cao của GM tham gia dự án cho biết ý hiện hệ thống hành trình chủ động, hệ thống giám sát điểm mù và nhiều hệ thống ngăn ngừa tai nạn trên thị trường khác phải cần tới các rađa, cảm biến âm thanh, cảm biến hồng ngoại hoặc camera trị giá tới 5.000 USD. Trong khi V2V hoàn toàn có thể thay thế tất cả các hệ thống này với một phần mềm, một ăngten GPS , chip điện tử và radio hai chiều có tổng chi phí chỉ vài trăm USD.
Ưu điểm nữa của V2V là hệ thống này không tạo cho lái xe cảm giác gò bó, bị “kiểm soát” gắt gao do nó chỉ đóng vai trò cảnh báo trong trường hợp có thể xảy ra tai nạn. Hệ thống cũng không trực tiếp giảm vận tốc xe mà chỉ đưa ra lời cảnh báo, như khuyến cáo hạn chế tốc độ hay kích hoạt tín hiệu lưu ý còn để lái xe tự xử lý. Điều này hoàn toàn khác so với các hệ thống an toàn chủ động như Pre-Safe của Mercedes-Benz, VDIM (Vehicle Dynamics Integrated Management) của Toyota/Lexus và nhiều hệ thống kiểm soát hành trình thích ứng có can thiệp trực tiếp khác và lái xe có thể tự xử lý tình huống trên đường.
Khó khăn chính trong việc ứng dụng V2V là qui mô của công nghệ để đạt được hiệu quả về an toàn. Chỉ cần từ 2-3% số xe sử dụng công nghệ này tham gia giao thông là có thể giảm đáng kể tình trạng tắc đường, tuy nhiên để đạt tới qui mô an toàn thì tỷ lệ cần thiết phải từ 80-85%.